LINK TẢI NHANH File PDF CAD Bản đồ đất nước Canada khổ lớn (32M)
Bản đồ nước Canada hay bản đồ các đơn vị hành chính đất nước Canada trên bản đồ thế giới giúp bạn tra cứu thông tin về vị trí tiếp giáp, ranh giới, địa hình của nước này chi tiết.
Chúng tôi BANDOVIETNAM.COM.VN tổng hợp thông tin Tất Tần Tật về nước Canada từ nguồn Internet uy tín, được cập nhật mới năm 2023.
Thông tin sơ lược giới thiệu về nước Canada
Tên chính thức | Canada |
Tên tiếng Anh | Canada |
Đơn vị tiền tệ | Đồng đôla Canada |
Thủ đô | Ottawa |
Ngày Quốc Khánh | 1-7 (1867) |
Thành phố lớn | Toronto, Montréal, Vancouver, Edmonton, Calgary... |
Diện tích | 9.984.670 km2 (hạng 2) |
Vị trí địa lý |
Nằm ở phía Bắc của Bắc Mỹ, Đông giáp với phía Bắc Đại Tây Dương, Tây giáp với phía Bắc Thái Bình Dương, Bắc giáp với Bắc Cực, Nam giáp với Mỹ. |
Địa hình | Phần lớn là đồng bằng, núi ở phía tây và đất thấp ở phía đông nam. |
Tên miền quốc gia | .ca |
Dân số | 38.223.496 người (Năm 2021) |
Ngôn ngữ chính | Tiếng Anh, tiếng Pháp; tiếng I-ta-lia, Tây Ban Nha cũng được sử dụng. |
Tôn giáo | Đạo Thiên chúa (47%), Đạo Tin lành (29%), Anh quốc giáo (18%) |
Tài nguyên thiên nhiên | Niken, kẽm đồng, vàng, chì, môlíp, đen, bạc, dầu mỏ, khí tự nhiên, than, gỗ, cá.. |
Múi giờ | UTC−3.5 đến −8 |
Mã điện thoại | +1 |
Diện tích nước Canada bao nhiêu? Nước Canada có tổng diện tích tự nhiên 9.984.670 km2 (hạng 2). Trong đó, 81,56% dân số sống ở thành thị (30.783.258 người vào năm 2019). Độ tuổi trung bình là 41,3 tuổi.
Đơn vị hành chính: Canada là một liên bang gồm có mười tỉnh và ba lãnh thổ. Các đơn vị hành chính này có thể được nhóm thành bốn vùng chính: Tây bộ Canada, Trung bộ Canada, Canada Đại Tây Dương, và Bắc bộ Canada ("Đông bộ Canada" bao gồm Trung bộ Canada và Canada Đại Tây Dương).
Canada hiện chia làm 10 tỉnh và 3 vùng lãnh thổ. Mỗi tỉnh và vùng lãnh thổ có thủ phủ riêng: Alberta (Edmonton), British Columbia (Victoria), Manitoba (Winnipeg), New Brunswick (Fredericton), Newfoundland (St. john’s), Nova Scotia (Halifax), Ontario (Toronto), Prince Edwards Island (Charlottetown), Quebec (thành phố Quebec), Saskatchewan (Regina), vùng lãnh thổ Tây Bắc (Yellơknife), vùng lãnh thổ Nunavut (Iqaluit) và vùng lãnh thổ Yukon (Whitehorse).
Dân số: Tính đến năm 2021, theo số liệu từ Liên Hợp Quốc, dân số hiện tại của các nước nước Canada là 38.223.496 người. Tổng dân số các nước nước Canada chiếm 0,48% dân số thế giới.
Nước Canada đang đứng thứ 39 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ. Mật độ dân số đạt 4 người/km2.
Vị trí địa lý: Nằm giữa các vĩ độ 41°B và 84°B, và giữa các kinh độ 52° T và 141°T, Canada chiếm phần lớn phía bắc của Bắc Mỹ, có biên giới trên bộ với Hoa Kỳ liền kề ở phía nam và bang Alaska của Hoa Kỳ ở phía tây bắc. Canada trải dài từ Đại Tây Dương ở phía đông đến Thái Bình Dương ở phía tây, phía bắc là Bắc Băng Dương.
Ý nghĩa Quốc kỳ: Quốc kỳ của nước Canada gồm 2 gam màu là trắng và đỏ, nền trắng có chiếc lá phong màu đỏ nằm giữa, bên cạnh là 2 hình chữ nhật nằm 2 bên màu đỏ.
Dải đỏ 2 bên tượng trưng cho Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, nền màu trắng biểu thị lãnh thổ của đất nước và chiếc lá phong ở giữa tượng trưng cho nhân dân Canada.
Bản đồ hành chính nước Canada khổ lớn năm 2023
Tóm tắt lịch sử của đất nước Canada
Dân cư nguyên trú
Các nghiên cứu khảo cổ học và phân tích di truyền học cho biết có sự hiện diện của loài người tại khu vực bắc Yukon từ 24.500 TCN, và tại nam Ontario từ 7500 TCN. Họ đến khu vực Canada ngày nay thông qua Beringia theo đường cầu lục địa Bering. Các di chỉ khảo cổ học người Da đỏ cổ đại (Paleo-Indian) tại bình nguyên Old Crow và các động Bluefish là hai trong số các di chỉ cổ nhất về sự cư trú của loài người tại Canada.
Thời kỳ tiếp xúc Châu Âu
Người Norse hay còn được biết đến là người Bắc Âu, những người này đã định cư tại Greenland và Iceland, họ đến vùng đất sau này là Canada vào khoảng năm 1000 CN và xây dựng một khu định cư nhỏ tại L’Anse aux Meadows ở cực bắc của Newfoundland, ước tính niên đại 990 – 1050 CN. L’Anse aux Meadows là địa điểm duy nhất được xác nhận là của người Bắc Âu bên ngoài Greenland. Nơi đây cũng đáng chú ý vì có mối liên hệ với việc cố gắng định cư Vinland của Leif Erikson trong cùng khoảng thời gian với việc khám phá của người Bắc Âu về Châu Mỹ .
Theo bằng sáng chế thư từ Vua Henry VII của Anh, John Cabot người Ý đã trở thành người Châu Âu đầu tiên được biết đến đã đặt chân đến Canada sau Thời đại Viking. Các ghi chép chỉ ra rằng vào ngày 24 tháng 6 năm 1497, ông đã nhìn thấy đất ở một địa điểm phía bắc được cho là ở đâu đó thuộc các tỉnh bang Đại Tây Dương .
Thời kỳ thuộc địa hóa của Châu Âu
Từ cuối thế kỷ 15, các cuộc thám hiểm của người Pháp và người Anh đã khám phá, thuộc địa và chiến đấu trên nhiều nơi khác nhau trong Bắc Mỹ, nơi tạo nên Canada ngày nay.
Mặc dù người Anh đã tuyên bố chủ quyền vào năm 1497 nhưng những tuyên bố này đã không được thực hiện và Anh đã không cố gắng tạo ra một thuộc địa lâu dài. Thay vào đó,Jacques Cartier, người Pháp, đã trồng một cây thánh giá ở Bán đảo Gaspé vào năm 1534 và tuyên bố chủ quyền vùng đất này dưới danh nghĩa của Francis I, tạo ra một vùng được gọi là Canada vào mùa hè năm sau.
Năm 1604, độc quyền buôn bán lông thú ở Bắc Mỹ được cấp cho Thương gia Pierre Du Gua, Sieur de Mons.
Champlain thành lập nơi ngày nay là Thành phố Quebec, một trong những khu định cư lâu dài sớm nhất, nơi sẽ trở thành thủ đô của nước Tân Pháp.
Mặc dù tỷ lệ nhập cư đến Tân Pháp vẫn rất thấp dưới sự kiểm soát trực tiếp của Pháp, hầu hết những người mới đến là nông dân, và tỷ lệ gia tăng dân số của chính những người định cư đã rất cao
Pháp nhượng gần như tất cả tài sản ở Bắc Mỹ ngoại trừ quyền đánh bắt cá ngoài khơi Newfoundland và hai hòn đảo nhỏ cho Vương quốc Anh vào năm 1763 theo Hiệp ước Paris sau Chiến tranh 7 năm. Anh trả lại cho Pháp thuộc địa sản xuất đường quan trọng nhất của họ, Guadeloupe, thuộc địa mà người Pháp coi là có giá trị hơn Canada.
Sau Hiệp ước Paris, Vua George III đã ban hành Tuyên bố Hoàng gia năm 1763. Tuyên ngôn này đã tổ chức đế chế Bắc Mỹ mới của Vương quốc Anh và ổn định mối quan hệ giữa Hoàng gia Anh và các dân tộc thổ dân, chính thức công nhận danh hiệu thổ dân, quy định thương mại, định cư và mua bán đất đai ở biên giới phía tây.
Tỉnh bang Quebec của Anh ngày nay được chia thành thượng và hạ Canada vào năm 1791. Hai tỉnh bang được hợp nhất thành tỉnh bang của Canada theo Đạo luật Liên minh 1840, có hiệu lực vào năm 1841. Năm 1867, tỉnh bang Canada được liên kết với hai thuộc địa khác của Anh là New Brunswick và Nova Scotia thông qua Liên minh miền Nam, tạo thành một thực thể tự quản.
Canada được sử dụng làm tên pháp lý của quốc gia mới và từ Dominion được phong làm tiêu đề của đất nước.
Từ Dominion được sử dụng từ năm 1907 đến năm 1948 để chỉ một trong số các quốc gia tự quản của Đế quốc Anh. Trong 82 năm tiếp theo, Canada mở rộng bằng cách kết hợp các khu vực khác của Bắc Mỹ thuộc Anh, kết thúc với Newfoundland và Labrador vào năm 1949.
Mặc dù chính phủ có trách nhiệm đã tồn tại ở Bắc Mỹ thuộc Anh từ năm 1848, Anh vẫn tiếp tục thiết lập các chính sách đối ngoại và quốc phòng của mình cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Việc thông qua Quy chế Westminster vào năm 1931 công nhận rằng Canada đã trở thành đồng bình đẳng với Vương quốc Anh. Hiến pháp Yêu nước năm 1982 , đánh dấu việc loại bỏ sự phụ thuộc pháp lý vào quốc hội Anh. Canada hiện bao gồm mười tỉnh và ba vùng lãnh thổ và là một nền dân chủ nghị viện và một chế độ quân chủ lập hiến.
Sự hình thành của liên bang
Nghị quyết 72 từ Hội nghị 1864 Quebec và Hội nghị Charlottetown đặt ra một khuôn khổ cho thống nhất thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ vào một liên bang. Các Nghị quyết trở thành cơ sở cho Hội nghị Luân Đôn năm 1866, dẫn đến việc thành lập Chính quyền thống trị của Canada vào ngày 1 tháng 7 năm 1867. Thuật ngữ thống trị được chọn để chỉ tình trạng của Canada như một thuộc địa tự quản của Đế chế Anh, lần đầu tiên nó được sử dụng về một quốc gia. Với việc Đạo luật Bắc Mỹ của Anh có hiệu lực, năm 1867 do Quốc hội Anh ban hành, Canada đã trở thành một quốc gia liên bang theo đúng nghĩa của nó.
Chiến tranh thế giới thứ nhất
Một chuyến tàu chở đầy binh sĩ khởi hành từ ga Union của Toronto ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu vào năm 1914.
Các lực lượng Canada và dân sự tham gia vào cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã góp phần nuôi dưỡng một ý thức chủ quyền quốc gia của Anh-Canada. Thành tích cao của quân đội Canada trong Chiến tranh thế giới thứ nhất là trong các trận chiến Somme, Vimy, Passchendaele và sau này được gọi là Trăm ngày của Canada. Danh tiếng mà quân đội Canada giành được, cùng với sự thành công của các át chủ bài bay của Canada bao gồm William George Barker và Billy Bishop, đã giúp mang lại cho quốc gia một cảm giác mới về bản sắc.
Các Văn phòng chiến tranh vào năm 1922 báo cáo khoảng 67.000 thiệt mạng và 173.000 người bị thương trong chiến tranh. Điều này không bao gồm trường hợp dân thường thiệt mạng trong các sự cố thời chiến như Vụ nổ Halifax.
Sự ủng hộ dành cho Vương quốc Anh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất đã gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị lớn về việc nhập ngũ, với những người Pháp ngữ, chủ yếu từ Quebec, từ chối các chính sách quốc gia . Trong cuộc khủng hoảng, một số lượng lớn người ngoài đặc biệt là người Ukraine và người Đức đã bị đặt dưới sự kiểm soát của chính phủ. Các đảng Tự do với hầu hết người nói tiếng Anh là các nhà lãnh đạo tham gia vào chính phủ đoàn viên đứng đầu là Thủ tướng Robert Borden, lãnh đạo của đảng Bảo thủ. Đảng Tự do lấy lại ảnh hưởng sau chiến tranh dưới sự lãnh đạo của William Lyon Mackenzie King, người từng giữ chức thủ tướng với ba nhiệm kỳ riêng biệt từ năm 1921 đến năm 1949.
Thời kỳ đại suy thoái
Canada đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc Đại suy thoái trên toàn thế giới bắt đầu vào năm 1929. Từ năm 1929 đến năm 1933, tổng sản phẩm quốc dân giảm 40%. Tỷ lệ thất nghiệp lên tới 27% vào độ sâu của cuộc suy thoái năm 1933. Nhiều doanh nghiệp đóng cửa, vì lợi nhuận doanh nghiệp 396 triệu đô la năm 1929 chuyển thành khoản lỗ 98 triệu đô la năm 1933. Xuất khẩu của Canada giảm 50% từ năm 1929 đến năm 1933. Xây dựng tất cả nhưng đã dừng lại, giảm 82%, năm 1929 – 1933 và giá bán buôn giảm 30%. Giá lúa mì giảm từ 78c / giạ (vụ 1928) xuống 29c vào năm 1932.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Sự tham gia của Canada vào Chiến tranh Thế giới thứ hai bắt đầu khi Canada tuyên chiến với Đức Quốc xã vào ngày 10 tháng 9 năm 1939, trì hoãn một tuần sau khi Anh hành động để biểu dương độc lập. Canada đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp lương thực, nguyên liệu thô, đạn dược và tiền bạc cho nền kinh tế khó khăn của Anh, đào tạo không quân cho Khối thịnh vượng chung, bảo vệ nửa phía tây của Bắc Đại Tây Dương chống lại các con tàu ngầm hải quân Đức vận hàng và cung cấp binh lính chiến đấu cho các cuộc xâm lược của Ý, Pháp và Đức vào năm 1943–45.
Trong dân số khoảng 11,5 triệu người, 1,1 triệu người Canada đã phục vụ trong các lực lượng vũ trang trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Hàng ngàn chiếc khác phục vụ trong Hải quân Thương gia Canada. Tổng cộng, hơn 45.000 người chết và 55.000 người khác bị thương. Việc xây dựng Lực lượng Không quân Hoàng gia Canada là một ưu tiên hàng đầu, nó được tách biệt khỏi Lực lượng Không quân Hoàng gia Anh. Các hiệp định về Kế hoạch huấn luyện hàng không của Khối thịnh vượng chung Anh được ký kết trong tháng 12 năm 1939, ràng buộc Canada, Anh, New Zealand, và Úc cho một chương trình đào tạo mà cuối cùng một nửa phi công từ bốn quốc gia trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Thời kỳ hậu chiến
Từ năm 1945 đến năm 1960
Năm 1949, thủ tướng Canada Louis St. Laurent bắt tay Albert Walsh, sau khi các đại biểu từ Canada và Newfoundland ký thỏa thuận kết nạp Newfoundland vào Liên bang.
Năm 1950, Chính sách đối ngoại của Canada trong Chiến tranh Lạnh gắn chặt với chính sách của Hoa Kỳ.
Năm 1956, Liên hợp quốc đã đối phó với Khủng hoảng Suez bằng cách triệu tập Lực lượng khẩn cấp của Liên hợp quốc để giám sát việc rút quân của các lực lượng xâm lược.
Năm 1957, cuộc khủng hoảng Suez khiến Canada xa lánh cả Anh và Pháp, các chính trị gia không tin tưởng vào khả năng lãnh đạo của Mỹ, các doanh nhân đặt câu hỏi về các khoản đầu tư tài chính của Mỹ.
Từ năm 1960 đến năm 1981
Năm 1960, cuộc Cách mạng Yên lặng diễn ra ở Quebec, lật đổ cơ sở cũ với trung tâm là Tổng giáo phận Công giáo La Mã Quebec.
Năm 1965, Canada đã thông qua lá cờ lá phong.
Năm 1980 – 1981, Thủ tướng Pierre Trudeau đã thực hiện các thay đổi xã hội và văn hóa các mục tiêu chính trị của mình, bao gồm cả việc theo đuổi song ngữ chính thức ở Canada và các kế hoạch thay đổi hiến pháp quan trọng
Từ năm 1982 đến năm 1992
Năm 1981, Hạ viện và Thượng viện Canada đã thông qua một nghị quyết yêu cầu Quốc hội Anh ban hành một gói sửa đổi hiến pháp sẽ chấm dứt quyền cuối cùng của Quốc hội Anh trong việc lập pháp cho Canada và sẽ tạo ra một quy trình hoàn toàn của Canada để sửa đổi hiến pháp.
Năm 1985, chuyến bay 182 của Air India bị phá hủy trên Đại Tây Dương do một quả bom phát nổ trên máy bay tất cả 329 người trên máy bay đều thiệt mạng, trong đó 280 người là công dân Canada.
Năm 1987, các cuộc đàm phán về Hiệp ước Hồ Mandala bắt đầu giữa chính quyền tỉnh bang và liên bang, nhằm tìm kiếm những thay đổi hiến pháp có lợi cho Quebec.
Năm 1990, Canada là một trong những quốc gia đầu tiên lên án Iraq xâm lược Kuwait và Canada nhanh chóng đồng ý tham gia liên minh lên án do Mỹ dẫn đầu.
Từ năm 1992 đến nay
Năm 1993, Kim Campbell nhậm chức và trở thành nữ thủ tướng đầu tiên của Canada. Tuy nhiên bà Campbell chỉ tại vị trong vài tháng và chứng kiến sự sụp đổ của Đảng Bảo thủ trong cuộc bầu cử năm 1993.
Năm 1995, chính phủ Quebec tổ chức cuộc trưng cầu dân ý lần thứ hai về chủ quyền đã bị bác bỏ với biên độ từ 50,6% đến 49,4%.
Năm 1998, Tòa án Tối cao Canada phán quyết việc một tỉnh đơn phương ly khai là vi hiến và Quốc hội đã thông qua Đạo luật rõ ràng nêu rõ các điều khoản của một cuộc ra đi được thương lượng.
Năm 2002, các vấn đề môi trường ngày càng trở nên quan trọng ở Canada trong thời kỳ này, dẫn đến việc chính phủ Tự do của Canada ký Hiệp định Kyoto về biến đổi khí hậu.
Năm 2005, Canada trở thành quốc gia thứ tư trên thế giới và là quốc gia đầu tiên ở châu Mỹ hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới trên toàn quốc với việc ban hành Đạo luật Hôn nhân Dân sự.
Năm 2015, đảng Bảo thủ của Stephen Harper đã bị đánh bại bởi một đảng Tự do mới trỗi dậy dưới sự lãnh đạo của Justin Trudeau và đảng này đã bị hạ xuống tư cách đảng thứ ba trong cuộc bầu cử năm 2011.