Bản đồ Du lịch TP Buôn Ma Thuột & Bản sắc văn hóa

Đội ngũ Bandovietnam.com.vn chia sẻ chi tiết về "Bản đồ du lịch Bản sắc văn hóa và Du lịch TP Buôn Ma Thuột". Giúp bạn khi đi du lịch tại Thành phố Buôn Mà Thuột đơn giản, tránh mất thời gian. Hi vọng những thông tin này hữu ích đến bạn.

Bản đồ Du lịch Thành phố Buôn Ma Thuột

Về thời tiết:

Thời tiết ở Buôn Ma Thuột được chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa. Vào mùa mưa đi lại thường khó khăn vì có nhiều tuyến đường đất, còn vào mùa khô thời tiết khá dịu mát và không quá nóng. Vậy nên du lịch Buôn Ma Thuột vào thời điểm nào?

Vào tháng 12 dương lịch ở Tây Nguyên có nhiều lễ hội đặc sắc và cũng là mùa hoa dã quỳ nở tuyệt đẹp. Khách có thể đến Buôn Ma Thuột vào lễ hội đua voi Bản Đôn, Lễ hội cồng chiêng và Lễ hội cà phê vào tháng 3 dương lịch, dịp được mong đợi nhất trong năm ở Tây Nguyên.

Phương tiện di chuyển:

Thành phố Buôn Ma Thuột cách Hà Nội khoảng 1.400km và TPHCM 350km, nên cách di chuyển tới Buôn Ma Thuột thuận tiện và an toàn nhất là bằng đường hàng không và đường bộ.

+ Đường hàng không: Từ Hà Nội và Sài Gòn tới Buôn Ma Thuột có nhiều đường bay của các hãng hàng không như: Vietnam Airline, VietJetAir, JetStar tới Buôn Ma Thuột.

+ Đường bộ: Từ Hà Nội và TPHCM đều có xe khách chạy thẳng Buôn Ma Thuột và các huyện khác của tỉnh Đắk Lắk, bạn có thể mua vé xe tại Bến xe Miền Đông hoặc Bến xe Giáp Bát.

Thời gian xe chạy khoảng 8 tiếng từ TPHCM và khoảng hơn 1 ngày đối với xe chạy từ Hà Nội.

Taxi ở Buôn Ma Thuộc

Phương tiện di chuyển ở Buôn Ma Thuột chủ yếu là taxi và xe ôm. Bạn có thể tham khảo các hãng taxi dưới đây.

Taxi Mai Linh: 0500 3819819

Taxi Ban Mê: 0500 3979979

Taxi Ban Mê Xanh: 0500 6272727

Taxi Tây Nguyên: 0500 3838838

Đắk Lắk Taxi: 0500 3818181

Du lịch tại Buôn Mê Thuộc ở đâu?

Hệ  thống khách sạn, nhà nghỉ tại Buôn Ma Thuột rất phong phú, phù hợp với nhiều nhu cầu từ bình dân tới cao cấp của du khách. Tùy vào nhu cầu cũng như chi phí du lịch mà quý vị chọn cho mình những khách sạn, nhà nghỉ phù hợp nhất. Hầu hết những điểm du lịch đẹp và nổi tiếng ở Tây Nguyên chỉ cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 40km, nên việc di chuyển tương đối thuận lợi.

Một số khách sạn, nhà nghỉ tại trung tâm Thành phố:

 - Dakruco Hotel, địa chỉ: 30 Ngyễn Chí Thanh, Tp. Buôn Mê Thuột

 - Dam San Hotel, địa chỉ: 212 Nguyễn Công Trứ Thành Phố Buôn Ma Thuột

 - Sai Gon Ban Me Hotel, địa chỉ:  3 Phan Chu Trinh, tp. Buôn Ma Thuột

 - Eden Hotel, địa chỉ: 228 Nguyễn Công Trứ Thành Phố Buôn Ma Thuột

 - Cao Nguyên Hotel, địa chỉ: 65 Phan Chu Trinh Thành phố Buôn Ma Thuột

  - Mường Thanh Hotel, địa chỉ: 81 Nguyễn Tất Thành, Thành phố Buôn Ma Thuột

Một số địa điểm du lịch tại Buôn Mê Thuột

Nhà đày Buôn Ma Thuột:

Tọa lạc tại số 18, đường Tán Thuật, phường Tự An, thành phố Buôn Ma Thuột do Pháp xây. Đây là địa điểm đỏ ở Buôn Ma Thuột, không chỉ có kết cấu kiến trúc độc đáo mà còn lưu giữ những chiến tích lịch sử của dân tộc.

Nhà đày Buôn Ma Thuột là một trong những nơi ươm mầm cho hạt giống cách mạng ở Đăk Lăk. Tới đây, du khách sẽ được cảm nhận rõ tinh thần yêu nước của con người Việt Nam trong thời kì chiến tranh. Nhà đày Buôn Ma Thuột là một địa điểm nổi tiếng, không thể bỏ qua khi du lịch Buôn Ma Thuột.

Nhà đày Buôn Ma Thuột
Nhà đày Buôn Ma Thuột

Bảo tàng Đăk Lăk

Tọa lạc tại số 02 đường Y Ngông, phường Tân Tiến, Thành phố Buôn ma Thuột: Bảo tàng Đắk Lắk là nơi lưu giữ giá trị di sản văn hóa các dân tộc Tây Nguyên. Bảo tàng Đắk Lắk được thành lập từ năm 1976.

Bảo tàng Đắk Lắk
Bảo tàng Đắk Lắk

Đến năm 2008 được tỉnh Đắk Lắk đầu tư xây dựng mới và khánh thành vào năm 2011 là một sự kiện rất có ý nghĩa trong đời sống văn hóa - xã hội của tỉnh Đắk Lắk nói riêng và Tây Nguyên nói chung, thể hiện sinh động chính sách dân tộc và sự quan tâm đến mục tiêu bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Bảo tàng Đắk Lắk được xây dựng mới cả về nội dung lẫn hình thức để xứng tầm với lịch sử lâu đời và nền văn hóa phong phú, đa dạng của địa phương, với địa danh Buôn Ma Thuột nổi tiếng - thành phố trung tâm khu vực Tây Nguyên.

Làng Cà Phê Trung Nguyên

Có diện tích 20.000 m2, nổi tiếng với cụm kiến trúc cổ và độc đáo mang đậm phong cách Tây Nguyên. Đây là một điểm đến hấp dẫn và thú vị khi du lịch Buôn Ma Thuột.

Tới làng Cà phê Trung Nguyên du khách sẽ được hòa mình trong không gia xanh tươi và chiêm ngưỡng những cây cà phê cổ và tham quan nhà dài Êđê – nơi trưng bày những hiện vật có giá trị lâu đời của Tây Nguyên như: bộ sưu tập cồng chiêng và các công cụ, nông cụ, vũ khí…

Làng cà phê Trung Nguyên
Làng cà phê Trung Nguyên

Thác Draynur – Dray Sap

Cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 30km theo hướng về Thành phố Hồ Chí Minh, thác Dray Nur có chiều dài 250m, nối liền địa bàn hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông.

Đứng trên độ cao hơn 30m các bạn sẽ được chiêm ngưỡng toàn bộ dòng thác đổ mình xuống dòng sông sâu tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp. Nhìn từ xa, thác Dray Nur như một bức tường nước khổng lồ, muôn ngàn sợi nước trắng xóa quấn quít, đan xen, lung linh, huyền ảo, giữa đại ngàn kỳ vĩ, trùng điệp núi non.

Thác Draynur
Thác Draynur

Ngoài ra, còn nhiều điểm du lịch khám phá và trải nghiệm ở Buôn Ma Thuột khác như: vườn quốc gia Yokđôn, Buôn đôn. khu du lịch hồ Ea Kao, thác Thủy Tiên, đồi thông Buôn Ma Thuột, tháp Chăm Yang Prong…

Nếu đã đến Buôn Ma Thuột, du khách sẽ ấn tượng về một thành phố đậm chất Tây Nguyên với cảnh đẹp hùng vĩ và con người thân thiện, bình dị nhưng không thiếu phần hiếu khách, nhiệt thành...

Tìm hiểu Bản sắc văn hóa tại Buôn Mê Thuột

Lễ Hội cà phê Buôn Ma Thuột
Lễ Hội cà phê Buôn Ma Thuột

Thành phố Buôn Ma Thuột nằm trên Cao Nguyên Đắk Lắk rộng lớn ở phía Tây dãy trường sơn, có địa hình dốc thoải từ 0,5 – 10, độ cao trung bình 500m so với mặt biển. Thời tiết khí hậu mát mẻ, vừa được chi phối của khí hậu nhiệt đới gió mùa vừa mang tính chất khí hậu cao nguyên, trong năm có 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa ( tháng 5 đến tháng 10), mùa khô ( tháng 10 đến tháng 4 năm sau), nhiệt độ trung bình hàng năm là 230C.

Thành phố Buôn Ma Thuột không chỉ là trung tâm Văn hóa, Kinh tế, Chính trị của tỉnh Đắk Lắk, mà còn là thành phố trung tâm cấp Vùng Tây Nguyên, có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng của vùng và cả nước. Tên gọi Buôn Ma Thuột được bắt nguồn từ tiếng Ê-đê: Buôn Ama Y Thuot (Buôn: làng, Ama: cha), gọi tắt là Buôn Ma Thuột, có nghĩa là làng của cha Thuột, tên vị tù trưởng có công lập ra buôn làng đầu tiên bên bờ suối Ea Tam. Buôn Ma Thuột là đầu mối huyết mạch giao thông tỏa ra các hướng, nối với thành phố Đà Lạt qua huyện Lăk bằng quốc lộ 27, nối liền với Khánh Hòa qua Ninh Hòa bằng quốc lộ 26, nối với TP.HCM bằng quốc lộ 14 qua Đăk Nông, Bình Phước, nối liền với Yok Đôn Buôn Đôn bằng tỉnh lộ số 1 và nối với Pleiku, Kontum bằng quốc lộ 14.

Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, Buôn Ma Thuột nổi tiếng có nhiều loại trái cây, khoai sắn, rau củ, đặc biệt là cà phê Buôn Mê đã từ lâu chiếm lĩnh trên thị trường và cho đến nay chưa có nơi đâu sánh bằng. Buôn Ma Thuột luôn là địa phương dẫn đầu cả nước về sản lượng và chất lượng cà phê. Với lợi thế là vùng đất ba gian màu mỡ trù phú bậc nhất Tây Nguyên, Ban Mê luôn cho những hạt cà phê có hương vị đậm đà và thơm ngon.

Từ những đặc trưng riêng biệt về điều kiện tự nhiên và con người nơi đây đã tạo cho Buôn Ma Thuột một nét văn hóa đặc sắc. Từ ngàn xưa, vùng đất Tây Nguyên đã là cái nôi của nhiều nhóm sắc tộc thiểu số, như: Jrai, Bahnar, Ê-đê, Giẻ, Raglai, Sê-đăng, Xtiêng, Mạ, Brâu, Churu, Mnông... Nhắc đến Buôn Ma Thuột, người ta sẽ nghĩ ngay đến những bản trường ca hào hùng, đến những lễ hội còn ít nhiều nét lạ thường, đến những ngôi nhà sàn, những bức tượng, những lán nhà mồ, nhưng đặc biệt là nghĩ đến nhạc cồng chiêng với một không gian văn hóa vừa được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn hóa của nhân loại.

Buôn Ma Thuột – Đắk Lắk có nhiều truyền thống văn hóa khá đa dạng của nhiều dân tộc mang đậm bản sắc riêng. Nếu đúng dịp, du khách sẽ được tham dự những lễ hội độc đáo còn nguyên chất dân gian. Trong kễ hội, cả buôn làng cầm tay nhau nhảy múa xung quanh đống lửa theo nhịp cồng, chiêng.

Lễ Hội đua voi tại TP Buôn Ma Thuột

Đua voi là một trong những nét văn hóa truyền thống của người Tây Nguyên được tổ chức vào tháng 3 dương lịch với hai năm một lần, Buôn Đôn là cái nôi của việc săn bắt và thuần dưỡng voi rừng, vì thế lễ hội thường được tổ chức ở đây.

Lễ Hội đua voi tại TP Buôn Ma Thuộc
Lễ Hội đua voi tại TP Buôn Ma Thuột

Những đàn voi từ các buôn xa, gần kéo về dự hội rất náo nhiệt. Sân đua là một bãi đất rộng chiều dài khoảng 400 – 500m, chiều rộng đủ cho 30 con voi đứng xếp hàng.

Đến giờ chuẩn bị vào cuộc đua, các nài voi cho voi đứng xếp hàng ngay ngắn ở điểm xuất phát. Sau một hồi tù và cất lên vang dậy cả núi rừng thì cũng là lúc các chú voi tiến thẳng về phía trước trong tiếng cồng chiêng và tiếng hò reo cổ vũ của mọi người. Cuộc đua được tiến hành dưới sự điều khiển của các nài voi dưới nhiều hình thức thi như: voi chạy tốc độ, voi kéo cây, voi ném gỗ, voi bơi vượt sông, voi đá bóng,… Sau cuộc thi tất cả các “vận động viên voi” đều được thưởng mía chuối… Riêng chú voi thắng cuộc đeo một vòng nguyệt quế và được thưởng rất nhiều thức ăn ngon.

Lễ đâm trâu của người Bana

Vào khoảng tháng Chạp đến tháng 3 âm lịch, người Banar ở Tây Nguyên lại mở lễ hội đâm trâu, gọi là Koh Kpo hoặc Groong Kpo Tonơi, để vui đón năm mới, mừng sức khỏe mọi người và cầu chúc mùa màng tươi tốt

Lễ đâm trâu của người Bana
Lễ đâm trâu của người Bana

Theo tục lệ của dân Banar, Jrai, hàng năm dân làng tổ chức một lần hội đâm trâu tại nhà rông, mọi phí tổn trong ngày hội do dân làng đóng góp lại. Người chủ trì ngày hội là già làng, đứng gần cột buộc trâu. Thanh niên nam nữ đáng chiêng, cồng, múa đứng sau lưng già làng. Những thanh niên có nhiệm vụ đánh trống, chiêng, cồng trong ngày hội, đầu chít khăn đỏ, mặc áo (loại áo ngày lễ dành cho con trai), đóng khố. Nữ thanh niên mặc áo phia, váy koteh (loại áo, mặc ngày hội của con gái). Các già làng và trai tráng chọn bãi đất rộng, bằng phẳng, không xa buôn làng để mời thần linh về chứng kiến. Gưng gồm cây nêu, cột buộc trâu và các cột để trang trí. Cây nêu bằng tre vút thẳng dựng ở giữa. Một cột chính bằng cây Pleng hay cây Xmuôn chôn vững để buộc trâu.

Quanh cây nêu người ta trồng từ 4 – 8 trụ gỗ tròn cao 2 – 3 mét, đường kính già nửa gang tay, kẻ trang trí các khoang với gam màu mạnh như xanh, đỏ, đen, trăng. Các trụ gỗ bố trí khoảng cách đều nhau theo hình hoa thị đối xứng, trên buộc nối các đoạn dây rừng tạo thề liên hoàn, vững chắc. Trên ngọn nêu có những thanh ngang tỏa ra 4 phía, mỗi đầu thanh có vòng tre như mặt trời. Những đoãn dây tết, những tam giác đan bằng lạt tre, những chùm ống chiên gió… lủng lẳng dưới các vòng mặt trời. Trên cao nữa, gần chỗ túi thiêng tượng trưng cho trí tuệ và sức mạnh là hình ảnh cách điệu của chim Kring (đại bàng) tượng trưng cho sứ giả của hạnh phúc.

Lễ hội diễn ra trong 3 ngày đêm. Vị tộc trưởng, thầy cúng hoặc già làng làm chủ lễ hiến tế. Hết ngày thứ nhất, sang ngày thứ hai, một dàn chiêng 8, 10, 12 chiêng đồng tấu lên giai điệu trầm hùng cùng với trống lớn Bnưng. Những trai tráng trong làng cởi trần, đóng khố, tay cầm gậy múa Kơ-tếch, giành riêng cho lễ hội đâm trâu. Những thanh niên khoẻ mạnh, đầu chít khăn đỏ, tay cầm chiên gươm sáng loáng lao ra, vừa múa vũ khí, vừa đi vòng tròn để lừa dịp đâm trâu.

Sau cuộc nhảy múa, họ bắt đầu đâm trâu. Khi con trâu đã tắt thở, thầy cùng mang chiên nồi đồng nhỏ đến hứng huyết trâu hòa với rượu, bộ phận đao kiếm tiếp tục xẻ thịt trâu, làm thịt trâu xong, họ chia đều cho từng bếp trong buôn làng. Một phần thịt trâu sẽ được dành lại để uống rượu chung tại nhà rông.Thịt trâu được xẻ ra, chia đều cho các bếp trong buôn.Thịt trâu cùng Giàng bày riêng thành 5 nhóm trên bàn thờ và được vẩu rượu tiết trâu. Buồng gan trâu được chia nhỏ cho trai làng ăn để tăng thêm sức mạnh. Cuộc vui mùa hát vẫn tiếp tục quanh đống lửa. Người già thì uống rượu, hát H’mon, trai gái chưa vợ, chưa chồng tìm đến nhau, nhảy múa cho đến khi tàn ngọn lửa, đến lúc mặt trời mọc…Những ngày ở lễ hội đâm trâu, cũng là những ngày hội của nghệ thuật cồng chiêng, vì nhiều nhà đem bộ cồng chiêng của mình tới tham dự. Lễ hội đâm trâu như bảo tàng sống động về nét văn hóa dân gian của người Banar, làm phong phú thêm sắc thái văn hóa của dân tộc Việt Nam.

Lễ cúng lúa sắp trổ bông của đồng bào Ê Đê

Đây là nhóm lễ nghi nông nghiệp phản ánh nét đẹp văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Ê đê ở huyện Krông Bông với ước muốn mong các thần linh phù hộ cho lúa trổ bông đều, dài, đầy hạt và đạt năng suất cao. Để thực hiện nghi lễ này lễ vật cúng gồm 4 ché rượu cần, 2 con gà trong đó có 1 con gà lông trắng, 2 con heo. Thời gian tiến hành lễ cúng kéo dài trong 2 giờ.

Lễ cúng lúa sắp trổ bông của đồng bào Ê Đê
Lễ cúng lúa sắp trổ bông của đồng bào Ê Đê
Lễ bỏ mả
Lễ bỏ mả
Nhà mồ của người Tây Nguyên
Nhà mồ của người Tây Nguyên

Người dân Tây Nguyên không có tục thờ cúng tổ tiên nên khi người chết được một năm hay đến ba năm thì người thân trong gia đình làm lễ bỏ mã. Ngôi mộ được xây cất kỹ lưỡng, dựng lên một ngôi nhà đẹp để che mưa che nắng, quanh mồ được trang trí bằng các tượng gỗ có hàng rào xung quanh.

Người Ê đê cũng có quan niệm riêng về luân hồi vòng đời của mỗi con người, từ đó nó ảnh hưởng đến quan niệm và sự sống và cái chết, về quan niệm máu mủ, cộng đồng. Đó là quan niệm con người sau khi chết phải qua lễ bỏ mả thì hồn của người chết mới về với thế giới tổ tiên. Sau khi hồn phải qua 7 lần chết nữa mới biến thành giọt sương mang linh hồn tổ tiên trở lại thế giới trên mặt đất đầu thai vào đứa trẻ. Vì vậy, đối với người Ê đê, lễ bỏ mả là dịp vui mừng để hồn người chết còn quẩn quanh người sống, sớm trở thành giọt sương để đầu thai lại thành người. Hồn người chết đầu thai vào đứa trẻ so sinh, mang hồn và tên tổ tiên, đảm bảo tính trường tồn và bền vững của cộng đồng huyết tộc.

Lễ bỏ mả là một trong những lễ quan trọng của người Ê đê. Thời gian bỏ mả tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của thân nhân người chết, nghĩa là lúc nào có đủ trâu bò, rượu thịt. Chủ xướng của lễ bỏ mả là một gia đình, một dòng họ hay có khi cả buôn. Nhà giàu, dòng họ lớn thì giết nhiều trâu bò, buộc nhiều ché rượu. Nhà nghèo thì phải có đủ rượu thịt để cung cấp ăn uống và phân chia cho người dự lễ.

Nghi thức chính của lễ bỏ mả diễn ra ở khoảng đất rộng của nghĩa địa. Bò đực được xẻ thịt ngay tại đó, rượu cần được buộc thành hàng, bàn cúng được dựng bằng tre, nứa, trên đó bày đồ cúng cho linh hồn người chết. đồ cúng gồm một chén cơm trắng, một chén thịt sống thái nhỏ có trộn tiết của con vật vừa bị giết cùng với một mẫu đuôi, một chiếc xương đầu và bầu rượu được hút ra từ ché rượu…

Thực chất của lễ bỏ mả là sự tuyên bố đoạn tuyệt của người sống và người chết. Sau lễ này, linh hồn người chết sẽ siêu thoát chuyển sang kiếp khác và mộ người chết trở nên vô chủ.

Lễ cưới cho voi của dân tộc M’nông

Người M’nông không thích cho voi đẻ, có lẻ vì trước đây voi con có sẵn trong rừng, chỉ cần đi săn bắt về thuần dưỡng. Cho nên việc voi đực và voi cái “quan hệ” với nhau có con phải kiêng cữ, là vi phạm luật. Nếu chúng đã lỡ với nhau rồi thì chủ voi phải làm lễ cho voi.

Khi biết con voi cái của mình có mang, chủ voi mang một tô gạo, một cây đèn cầy và một cây kreo (dùi mốc) đến nhà voi đực trình bày. Sau khi bàn bạc, hai bên lượng tình thông cảm với nhau và thống nhất tiến hành “lễ cưới”. Chủ voi đực mang một lợn, một chóe rượu, một tô gạo, một cây đèn cầy và một cây kreo đến nhà chủ voi cái để xin cưới. Hai nhà giết heo, lấy huyết heo hòa nước rượu đầu phết vào bàn thờ (kuất), đá bếp, cột nhà và cửa ra vào, báo cho tổ tiên ông bà, thần đá bếp, đến uống rượu ăn thịt, phù hộ cho gia đình, đừng để cho ma xấu lợi dụng làm hại buôn làng. Sau đó hai chủ voi vừa phết huyết heo vào ché rượu vừa khấn vái, cầu chúc cho đôi voi và mọi người bình yên, hạnh phúc. Lễ nghi này tiến hành xong thì chủ voi cái mang cơm nếp đến nhà chủ voi đực làm một lễ cúng khác. Hôn lễ cử hành giống như ở nhà voi cái.

Lễ cưới cho voi của dân tộc M’nông
Lễ cưới cho voi của dân tộc M’nông

Đây là một lễ nghi trong vô số những lễ nghi cúng thần voi của dân tộc M’nông. Lễ cưới này thể hiện cư xử và tình cảm của đồng bào cho con voi chẳng khác nào một thành viên thực thụ của cộng đồng.

Lễ cúng cắt ngà voi của người M’Nông

Người M’nông thích nuôi voi đực hơn voi cái. Tưởng rằng nuôi voi cái đẻ ra voi con, nhưng theo phong tục, đồng bào rất kiêng cữ khi voi cái đẻ. Nuôi voi đực cắt được ngà, vài ba năm cắt được cặp ngà, một cặp ngà đổi được một con voi con. Một đời voi đực cắt được hàng chục lần ngà, có thể cho chủ nhiều của cải, đổi lấy nhiều con voi. Chưa kể nó còn tham gia đi săn bắt voi rừng và vận chuyển giúp thay sức người. Một công dụng nữa của ngà voi là dùng làm đồ trang sức. Nhiều dân tộc ở Tây Nguyên rất thích đeo bông tai ngà voi, phổ biến nhất là người M’nông. Mạ, Xtiêng…

Lễ cúng cắt ngà voi của người M’Nông
Lễ cúng cắt ngà voi của người M’Nông

Khi cắt ngà voi phải làm lễ cúng xin phép thần Nguach Ngual, đây là vị thần linh thiêng cai quản loài voi theo tín ngưỡng của người M’nông. Lễ nghi cúng cắt ngà voi cũng khá rườm rà, chu đáo. Lễ nghi được tiến hành như sau: Buổi chiều hôm trước ngày cắt ngà voi, chủ lấy một bát gạo, đốt một cây đèn sáp ong khấn nơi đầu con voi để xin cắt ngà. Người cúng vừa đọc lời khấn vừa bốc nắm gạo rảy lên trên ngọn đèn sáp. Nếu hạt gạo dính dựng đứng trên đèn sáp đến 3 lần tức là voi “đồng ý” cho ngà, còn không dính hạt nào, hoặc có dính nhưng hạt gạo nằm ngang, nằm nghiêng thì không được.

Khi được rồi, chủ voi lấy sợi chỉ buộc vào ngà con voi để tối hôm đó con voi tự điều chỉnh định mức cắt dài ngắn đến đâu thì mới cắt đến đó. Người cắt ngà voi cũng phải có nghề, nếu cưa cắt ẩu tả, không đúng kỹ thuật sẽ làm long ngà, bị hư và không mọc ra nữa. Cắt ngà xong phải cúng tạ thần voi một con lợn, một ché rượu, trầu cau, thuốc, cơm nếp, chuối, mía, lẽ cúng này tiến hành như lễ mừng voi mới mua. Nếu nhà nuôi nhiều voi, cắt ngà vài ba con voi một lúc thì phải cúng tạ một con trâu.

Ngà voi để mọc dài không cắt, hai đầu ngà giáp nhau voi rất khó giơ vòi lấy thức ăn. Những con voi rừng thường bẻ bớt chút đầu nhọn nơi ngà để cho thoáng. Nếu voi nhà nuôi, tự nhiên ngà bị gãy ở giữa hoặc sát môi thì người ta cho là có chuyện, gia đình chủ voi phải cúng lợn hoặc trâu.

Lễ cúng bến nước của dân tộc Ê đê

Một trong những phong tục tập quán lâu đời nhất của đồng bào dân tộc Ê đê là Lễ cúng Bến nước. Lễ cúng được tổ chức hàng năm sau mùa thu hoạch với mục đích cúng tạ thần nước đã đem lại những may mắn trong năm cũ và cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đây cũng là một trong những hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng mang nhiều ý nghĩa tích cực trong đời sống tâm linh của đồng bào dân tộc Ê đê.

Lễ cúng bến nước của dân tộc Ê đê
Lễ cúng bến nước của dân tộc Ê đê
Thầy cúng tiến hành các nghi thức truyền thống
Thầy cúng tiến hành các nghi thức truyền thống

Lễ cúng bến nước diễn ra trong không khí linh thiêng, trang trọng. Thầy cúng sẽ là người chủ trì lễ cúng với mâm đồ cúng là thịt lợn, gà và quan trọng nhất là một chậu tiết loãng. Thầy cúng đọc lời khấn cầu mong thần nước mang nước, nguồn sức sống quan trọng nhất đến cho buôn làng. Sau khi làm thủ tục cúng xong ở bến nước những bầu nước mát ngọt được những người con của buôn làng gùi về nhà. Trong khi đó một đoàn người sẽ theo người chủ lễ đi đến cầu thang từng nhà, hát cầu cúng và rưới tiết vào chân cầu thang để cầu may cho nhà chủ… Sau đó cả buôn làng lại quây quần bên nhau để ăn tiệc, uống rượu cần và nhảy múa trong không khí của lễ hội với âm vang rộn ràng của cồng chiêng Tây Nguyên – một di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Lễ ăn cơm mới của dân tộc Ê Đê

Theo các già làng thì Lễ ăn cơm mới của người Êđê diễn ra như sau:  Khi lúa trên rẫy đã được gùi về đổ đầy các kho lúa, chủ nhà bắt tay vào việc tổ chức lễ cúng cơm mới. Lễ không tổ chức cho toàn buôn một lúc, mà lần lượt từng nhà. Phụ nữ lo việc bếp núc, nấu nướng. Đàn ông thì lo rượu cần, chuẩn bị heo, gà để giết thịt; vào rừng chặt cây, đẽo cột gơng để buộc ché rượu cần; đi mời khách, họ hàng từ các buôn gần xa. Con trai lo chặt củi, con gái lo giã gạo; tiếng chày trong buôn vọng lên từ sáng sớm đến lúc mặt trời lặn. Đám trẻ con háo hức chơi đùa, hoặc vây quanh các phụ nữ đang sửa soạn những áo, váy, khố đẹp, những tấm chăn đen, đỏ rực rỡ dùng cho ngày lễ. Nếu gia chủ là trưởng tộc, thì họ hàng trong buôn phải mang thêm đồ cúng đến đóng góp. Khi mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ, cột gơng đã dựng, các ché rượu đã buộc, chiêng Ana, chiêng Sar đã treo lên xà nhà; nước từ suối đã đem về đổ đầy các nồi năm, nồi mười; heo đã mổ, gà đã thui, các lễ vật đã bày ra ở sàn nhà…

Lễ ăn cơm mới của dân tộc Ê Đê
Lễ ăn cơm mới của dân tộc Ê Đê

Thầy cúng trong bộ lễ phục chỉnh tề bước ra, hút rượu cần vào một cái bát hoà với tiết heo, trân trọng mời nữ chủ nhân cao tuổi nhất ngồi trước mâm, chân đặt lên lưỡi rìu nhận lễ. Tiếng chiêng với nhịp điệu vừa trầm hùng, vừa náo nức nổi lên. Thầy cúng đọc lời khấn nguyện tỏ lòng biết ơn các thần: Ơ Yang phía đông, Yang phía tây, Yang mây, Yang đất… Nay lúa đã suốt về, heo đực đã mổ, rượu đã đầy ché… Xin mời các Yang hãy cầm cần rượu, ăn miếng thịt heo, bát cơm mới đầu mùa. Mong Yang cho mùa mùa sau lúa ngoài rẫy sai bông, mẩy hạt, đến kỳ thu hoạch đầy gùi, ngập kho… . Khấn xong, thầy đi vẩy rượu chúc phúc nơi bếp lửa, dàn chiêng, cầu thang, kho lúa. Tiếp theo phần nghi lễ, bắt đầu cuộc tiệc vui. Ông bà, cha mẹ trong buôn, khách khứa xa gần, bạn bè ăn uống no say, tự nhiên, thoải mái. Người nữ chủ nhà được mời vít cần rượu đầu tiên, rồi lần lượt người già, người trẻ, trong họ trước, trong buôn sau…

Mọi người vừa ăn uống, vừa vui chơi, ca hát cho đến khi ai không thích nữa thì về và được gia chủ trao tay mỗi người một gói thịt nhỏ như để cùng chia đều sự may mắn cho mọi người. Người ở lại được mời nối tay trên cần rượu, nghe chiêng, nghe hát Aray. Về khuya, một già làng hay nghệ nhân trong buôn được mời kể Khan. Giọng kể của nghệ nhân khi trầm hùng như dòng sông chảy bên vách núi, lúc dồn dập, ồ ạt như băng qua thác ghềnh hiểm trở, khi thầm thì như gió thoảng, lúc nhẹ nhàng như tiếng lá rơi giữa rừng khuya thu hút lòng người. Cứ thế, lễ ăn cơm mới kéo dài từ nhà này sang nhà khác.

Lễ ăn cơm mới của người Êđê mang đậm nét dấu ấn của tục ăn năm, uống tháng, nhàn hạ trong không khí mùa xuân núi rừng. Họ vui say thoả thích, ca hát thâu đêm, để rồi sau đó lại hăng hái chuẩn bị cho mùa trồng tỉa mới với nhiều hy vọng mới.

Lễ hội cồng chiêng

Cồng chiêng không chỉ để giao lưu với thần linh, thông tin đến mọi người trong buôn làng, mà còn là tâm hồn của người Tây Nguyên đầy trữ tình và khát vọng yêu cuộc sống. Cồng chiêng Tây Nguyên bao giờ cũng có bộ, mỗi dân tộc có một bộ chiêng khác nhau, dàn chiêng Ê đê có từ 7-10 chiếc. Chỉ cần nghe âm điệu là biết ngay nơi đó có việc gì đang diễn ra, chiêng bỏ mả chầm chậm như tiếc thương; chiêng đám cưới rộn ràng; chiêng cúng bái trang trọng ngân nga…

Lễ hội cồng chiêng
Lễ hội cồng chiêng

Cồng chiêng đã trở nên thân quen trong cuộc sống của đồng bào dân tộc. Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là di sản truyền khẩu và phi vật thể nhân loại (25-11-2005).

Lễ cúng sức khỏe cho voi

Trong lễ cúng sức khỏe cho voi, thầy cúng được mời phải là thầy cúng giỏi, có uy tín và am hiểu tập tục của đồng bào. Thầy cúng cùng với các nài voi trong buôn đến nhà chủ voi chuẩn bị lễ vật, cùng ăn và uống rượu với gia đình. Lễ cúng được coi là sang trọng và tươm tất khi gia chủ làm trâu ăn mừng, bình thường là heo, nếu không cũng phải là gà… tùy thuộc vào gia cảnh của chủ voi. Các lễ vật bắt buộc đi kèm là rượu cần ít nhất 3 ché, 1 chén gạo có gắn đèn sáp ong, 1 chén cơm, 1 bầu nước, một vài đĩa lòng lợn…

Lễ cúng sức khỏe cho voi
Lễ cúng sức khỏe cho voi
Với vết tiết lợn trên vòi, chú voi đã được các vị thần chứng kiến và ban sức khỏe
Với vết tiết lợn trên vòi, chú voi đã được các vị thần chứng kiến và ban sức khỏe

Lễ cúng sức khỏe cho voi mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp, thể hiện lòng yêu thương quý trọng của con người đối với vật nuôi có giá trị và qua đó nhắn nhủ mọi người hãy chăm sóc và bảo vệ đàn voi. Lễ cúng sức khoẻ cho Voi mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc tại chỗ cần được gìn giữ, bảo tồn và phát huy.

Saigon Uniform